Ghẻ khoai lang Update 05/2024

Ad by CNCT
Tên khoa học:
Sphaceloma batatas Sawada

1. Triệu chứng bệnh ghẻ khoai lang (Sphaceloma batatas Sawada)

bệnh ghẻ khoai lang

– Bệnh ghẻ khoai lang gây hại chủ yếu ở phần thân và lá cây. Vết bệnh màu trắng xám sau chuyển sang màu nâu nhạt, kích thước vết bệnh nhỏ hình tròn hoặc bầu dục dài, về sau bề mặt vết bệnh sần sùi màu nâu xám hoặc nâu tối. Các vết bệnh có thể liên kết với nhau tạo thành vệt hoặc từng đám trên thân và cuống lá.

– Ở mặt dưới của lá, vết bệnh thường tụ lại thành đám nhỏ trên những gân chính làm lá bị co tóp lại, thân và cuống lá teo nhỏ và cong queo. Triệu chứng dị hình do bệnh ghẻ gây ra gần giống với 1 số bệnh virus gây hại ở phần thân lá khoai lang.

2. Nguyên nhân gây bệnh ghẻ khoai lang (Sphaceloma batatas Sawada)

– Nấm gây bệnh ghẻ có giai đoạn vô tính là Sphaceloma batatas Sawada, giai đoạn hữu tính là Elsinoe batatas Viegas và Jenkins. Trong điều kiện tự nhiên nấm phát triển ở phần dưới biểu bì lá và thân, rất ít khi quan sát thấy nấm trên bề mặt vết bệnh.

– Trong điều kiện nuôi cấy nhân tạo nấm phát triển mạnh. Nấm sinh sản vô tính tạo thành đĩa cành ở dưới lớp mô biểu bì. Cành bào tử phân sinh đơn bào, không màu, hình trụ kích thước 6 – 8 micromet. Bào tử phân sinh có loại bào tử nhỏ hình cầu, kích thước từ 2 – 3 micromet, bào tử lớn hình bầu dục kích thước 2,4 – 4,0×5,3 – 7,5 micromet.

– Trong điều kiện ẩm độ thích hợp, bào tử nhỏ có thể phình to tạo thành bào tử lớn của nấm. Giai đoạn sinh sản hữu tính tạo ra quả thể bầu nằm sâu trong mô bệnh, túi bào tử màu xám sẫm, kích thước 10 – 15 micromet.

– Mỗi túi có từ 4 – 6 bào tử túi không màu, có 3 vách ngăn, kích thước 3×7 micromet. Nấm phát triển thích hợp ở nhiệt độ 25 – 30 độ C, nhiệt độ tối thiểu là 10 độ C, và tối đa là 38 độ C. Nấm có thể sinh trưởng trong phạm vi pH 6,0 – 8,5. Điều kiện xen kẽ giữa sáng và tối rất thích hợp cho sự phát triển và sinh sản của nấm.

3. Đặc điểm phát sinh phát triển bệnh ghẻ khoai lang (Sphaceloma batatas Sawada)

– Sự lan truyền của nấm bệnh trên đồng ruộng nhờ vào nhiều yếu tố, nhưng chủ yếu qua vết thương cọ sát, tiếp xúc giữa thân lá, qua mưa, côn trùng và việc sử dụng dây khoai nhiễm bệnh làm giống.

– Khoai lang trồng nơi đất thấp, đất thịt nặng rất dễ bị nhiễm bệnh. Khoai lang trồng bãi có mức đô bệnh lớn hơn nhiều so với trồng luống. Ở nước ta bệnh ghẻ khoai lang xuất hiện ở 2 vụ chính là vụ xuân hè và vụ đông xuân. Bệnh gây hại chủ yếu ở vụ xuân hè.

– Giai đoạn sinh trưởng của cây thể hiện mức độ nhiễm bệnh của cây. Ở giai đoạn 50 – 60 ngày sau trồng, là giai đoạn sinh trưởng của cây thể hiện mức độ nhiễm bệnh khác nhau. Từ giai đoạn sinh trưởng thân lá đến khi thu hoạch thì khả năng nhiễm bệnh cao hơn giai đoạn từ hồi xanh đến 35 ngày sau trồng.

– Tập đoàn giống khoai lang có phản ứng bệnh rất khác nhau, hầu hết các giống địa phương nước ta đều nhiễm bệnh. Giống khoai Muống Bí, Chiêm dâu bị nhiễm nặng. Giống khoai Lim, Đà Nẵng có mức độ nhiễm bệnh nhẹ và khoai Hoàng Long tương đối chống chịu bệnh. Các  giống khoai VSP2, VSP3, V3 – 158 và một số giống vô tính BIS183, BIS186,…có khả năng kháng bệnh cao, và đang được trồng rộng rãi ở Fiji, Papua, Tonga, Indonesia và Philippines.

4. Biện pháp phòng và trừ bệnh ghẻ khoai lang (Sphaceloma batatas Sawada)

– Phòng và trừ bệnh ghẻ khoai lang chủ yếu bằng các biện pháp canh tác và kỹ thuật trồng trọt. Sử dụng nguồn giống (dây và củ khoai) sạch bệnh, cần loại bỏ toàn bộ cây bệnh. Khoai cần trồng theo luống cao, chủ động tưới tiêu nước và đưa thêm các giống chịu bệnh vào cơ cấu giống để hạn chế sự phát triển của bệnh. Khi phát hiện ổ đầu tiên trên đồng ruộng có thể dùng Score 250ND (0,3 – 0,5lit/ha) để phun